Thánh Kinh là gì?
THÁNH KINH LÀ GÌ?
[Intro]
Yeah, đây là Thánh Kinh, bộ sách thiêng liêng,
Lời Chúa từ trời cao, xuyên suốt muôn đời phi thường.
Từng trang sách ghi chép bao mạc khải,
Cùng nhau rap về Thánh Kinh, nào, hãy dõi theo!
[Verse 1: Thánh Kinh là gì?]
Thánh Kinh là bộ sách ghi lại mạc khải,
Lời Chúa truyền dạy, qua nhiều thời đại.
Nhiều người viết nên, nhiều tay bút ghi,
Gom lại tất cả, thành câu chuyện diệu kỳ.
Không chỉ một sách, mà nhiều sách nối nhau,
Câu chuyện của Chúa, theo dòng thời gian, sao sâu!
Danh từ Hy Lạp “Ta Biblia” ta nghe,
Có nghĩa là “những sách”, không chỉ một đâu nhé!
[Chorus]
Cựu Ước bốn sáu quyển, Tân Ước hai bảy,
Viết từ thuở khai thiên đến khi Chúa bay.
Thánh Kinh là bộ sách, sống mãi ngàn năm,
Giao ước cũ, giao ước mới, nối kết không ngăn!
[Verse 2: Phân chia Thánh Kinh]
Thánh Kinh chia hai, Cựu Ước với Tân Ước,
Lời Chúa dạy dỗ, tình yêu không chệch hướng.
Cựu Ước bốn sáu quyển, viết từ thuở xưa,
Từ khai thiên lập địa, loài người được dựng ra.
Cựu Ước gọi là giao ước cũ mọi nơi,
Vì Chúa ký kết qua Môsê trên núi, bạn ơi.
Trên Sinai, giao ước đã truyền,
Luật pháp được ban, cho dân Chúa khắp miền.
Tân Ước hai bảy quyển, nói về Đức Giêsu,
Từ khi Ngài đến, đến Giáo Hội sơ khai diệu kỳ.
Giao ước mới, qua Giêsu ký kết,
Tình yêu của Ngài, bao trùm mọi vũ trụ mênh mông!
[Chorus]
Cựu Ước bốn sáu quyển, Tân Ước hai bảy,
Viết từ thuở khai thiên đến khi Chúa bay.
Thánh Kinh là bộ sách, sống mãi ngàn năm,
Giao ước cũ, giao ước mới, nối kết không ngăn!
[Verse 3: Phân loại chi tiết Cựu Ước]
Cựu Ước chia bốn, từng loại rõ ràng,
Ngũ Thư đứng đầu, năm quyển sách vang.
Sách Lịch sử kế tiếp, mười sáu sách sâu,
Viết về thời gian, dân Chúa qua bao sầu.
Rồi đến Thi ca, Minh triết dẫn lối,
Bảy quyển giáo huấn, đem trí tuệ sáng ngời.
Sách Ngôn sứ cuối cùng, mười tám cuốn dày,
Truyền lời của Chúa, cảnh tỉnh bao dân ngây!
[Verse 4: Phân loại chi tiết Tân Ước]
Tân Ước cũng chia làm bốn loại hay,
Bốn sách Tin Mừng, Chúa Giêsu tràn đầy.
Sách Công Vụ kế tiếp, chỉ một thôi,
Nói về hành trình Giáo Hội sơ khai bước tới.
Hai mốt lá thư, từ Phaolô và các bạn,
Những lời dạy dỗ, truyền lửa cho toàn thế gian.
Cuối cùng Khải Huyền, một quyển duy nhất,
Nói về tương lai, ngày sau cùng thật tất!
[Chorus]
Cựu Ước bốn sáu quyển, Tân Ước hai bảy,
Viết từ thuở khai thiên đến khi Chúa bay.
Thánh Kinh là bộ sách, sống mãi ngàn năm,
Giao ước cũ, giao ước mới, nối kết không ngăn!
[Bridge: Nguyên ngữ Thánh Kinh]
Cựu Ước đa số viết bằng tiếng Hipri,
Một phần nhỏ bằng tiếng Hy Lạp thôi, được ghi.
Thư qui Palestin không công nhận đâu,
Nhưng vẫn là lời Chúa, vượt qua bao khổ đau.
Tân Ước thì hoàn toàn viết bằng Hy Lạp,
Ngôn ngữ bình dân, Koiné đại chúng khắp.
Dù viết đơn giản, nhưng lời Ngài vẫn sâu,
Vượt qua thời gian, tình yêu mãi bền lâu.
[Outro]
Vậy Thánh Kinh là gì, bạn đã rõ rồi,
Là bộ sách thiêng liêng, không ai sánh nổi.
Từ Cựu Ước đến Tân Ước nối tiếp,
Lời Chúa ngàn năm, mãi mãi không dứt xiết!
Linh ứng là gì?
[Intro]
Yo, linh ứng là gì, bạn có muốn biết không?
Đây là câu chuyện về Thánh Linh dẫn đường!
Chúa và con người cùng viết Thánh Kinh,
Hãy rap lên để hiểu rõ mọi hành trình!
[Verse 1: Linh Ứng là gì?]
Linh Ứng, Thánh Linh soi sáng trí,
Giúp người ta viết đúng ý Chúa, không suy nghĩ.
Tác giả là hai, Chúa và con người,
Cùng nhau hợp tác, lời Ngài mãi tuyệt vời!
Chúa giống giám đốc, con người là thư ký,
Khi cần văn kiện, chỉ cần đưa ý.
Giám đốc ra lệnh, thư ký chọn lời,
Bút pháp và từ ngữ, tạo nên văn chương sáng ngời!
[Chorus]
Linh Ứng, lời Chúa được truyền,
Con người viết ra, Thánh Linh hướng dẫn xuyên.
Thánh Kinh là kết quả, chứa đựng mạc khải,
Lời Chúa cho muôn người, tình yêu Ngài mãi mãi!
[Verse 2: Tiến trình hình thành Sách Thánh]
Tiến trình hình thành, bạn có hiểu chưa?
Ý tưởng từ Thánh Linh, là điều đầu tiên đẩy đưa.
Con người tìm cách viết, chọn từ ngữ ra,
Văn thể, hình ảnh, bút pháp đều do họ lo xa.
Ban đầu viết xong, có thể còn sửa đổi,
Nhiều người sắp xếp lại, chỉnh sửa theo lối.
Thêm bớt chỗ này, điều chỉnh chỗ kia,
Nhưng luôn có Thánh Linh, dẫn dắt mọi ý.
[Bridge]
Kết quả cuối cùng, sách chứa mạc khải,
Lời Chúa tinh tường, tình yêu không phai.
Thánh Kinh thành hình, qua bao thế hệ,
Lời của Thiên Chúa, vẫn sáng rọi không nệ!
[Chorus]
Linh Ứng, lời Chúa được truyền,
Con người viết ra, Thánh Linh hướng dẫn xuyên.
Thánh Kinh là kết quả, chứa đựng mạc khải,
Lời Chúa cho muôn người, tình yêu Ngài mãi mãi!
[Verse 3: Thái độ đúng đắn với Thánh Kinh]
Khi đọc Thánh Kinh, phải nhớ rõ ràng,
Lời Chúa được viết bằng ngôn ngữ loài người ban.
Nên vừa phải nghiên cứu như một tác phẩm đời,
Nhưng cũng cần tôn trọng, vì đó là lời Chúa Trời!
Ta cần khảo sát kỹ, hiểu từng văn chương,
Nhưng vẫn phải tin tưởng, tôn trọng hết lòng thương.
Lời Chúa trong Thánh Kinh không thể sai lầm,
Chân lý Ngài mạc khải, là đức tin không ngăn.
[Verse 4: Thánh Kinh có sai lầm không?]
Thánh Kinh không sai trong chân lý thiêng liêng,
Chúa mạc khải cho ta, dẫn lối cõi tiên.
Nhưng đôi khi cách viết, có thể có sai,
Do con người viết ra, không hoàn hảo mãi mãi.
Chúa ban cho ý chính, con người tự viết lời,
Nên lỗi nhỏ trong ngôn từ, cũng là chuyện đời.
Nhưng điều quan trọng là sự thật trong Kinh,
Không bao giờ sai, đó là ý nghĩa linh thiêng!
[Chorus]
Linh Ứng, lời Chúa được truyền,
Con người viết ra, Thánh Linh hướng dẫn xuyên.
Thánh Kinh là kết quả, chứa đựng mạc khải,
Lời Chúa cho muôn người, tình yêu Ngài mãi mãi!
[Outro]
Vậy là Linh Ứng, bạn đã hiểu rồi,
Thánh Linh soi sáng, lời Chúa ta không lầm lối.
Chúa và con người hợp tác viết Thánh Kinh,
Lời Chúa vĩnh cửu, cho muôn thế hệ hiển vinh!
Thư quy là gì 1?
[Intro]
Yo, nói về Thư Qui, bạn đã nghe chưa?
Đó là những sách thánh, không thể nào bỏ lỡ.
Được chọn ra từ Do Thái giáo cổ xưa,
Palestin và Alexandria, hãy cùng khám phá, đừng chờ!
[Verse 1: Thư Qui là gì?]
Thư Qui, tiếng Hy Lạp gọi là Canon,
Nghĩa là quy luật, quy định chẳng mòn.
Sách nào được coi là sách thánh thiêng liêng,
Thư Qui đặt ra, quy tắc cho mọi điều kiêng.
Palestin, Alexandria, hai nguồn lớn,
Do Thái giáo chọn sách, không ai trốn.
Những quyển nào được xem là lời Chúa,
Cùng nhau tìm hiểu, không thể lơ là nữa!
[Chorus]
Thư Qui Palestin, Alexandria,
Hai nơi chọn sách thánh, khác biệt bao la.
38 quyển ở Palestin, thêm 7 hoặc 8 nữa,
Alexandria nâng lên, 46 quyển sách chứa!
[Verse 2: Thư Qui Palestin]
Thư Qui Palestin, từ vùng đất cổ,
Những người Do Thái nơi này chọn sách thật rõ.
Sau năm 70, khi Giêrusalem tan hoang,
Pharisêu tụ hội, tìm cách giữ vững lòng tin trong.
Tại Jamnia, họ ngồi lại suy xét,
Nguyên nhân mất nước, mọi điều suy nghĩ kết.
Một trong những lý do, sự thiếu đoàn kết,
Việc chọn Sách Thánh cần làm cẩn trọng, không thể lướt qua nét.
Tiêu chuẩn đặt ra, phải đáng tin cậy,
Viết bằng chữ Hipri, không ai hoài nghi.
Tổng cộng 38 quyển được họ chọn ra,
Ngũ Thư, sách Ngôn Sứ, lịch sử và thi ca.
[Chorus]
Thư Qui Palestin, Alexandria,
Hai nơi chọn sách thánh, khác biệt bao la.
38 quyển ở Palestin, thêm 7 hoặc 8 nữa,
Alexandria nâng lên, 46 quyển sách chứa!
[Verse 3: Thư Qui Alexandria]
Bây giờ đến Alexandria, nơi Do Thái hải ngoại,
Nhóm lại chọn sách, giữ văn hóa không phai.
Sống theo phong cách Hy Lạp mới,
Họ họp tại Ai Cập, quyết định ra một lối.
Alexandria thêm sách vào thư qui,
Những sách tiếng Hy Lạp, cho thêm phần kỹ.
Giuditha, Tôbia, Macabe hai quyển,
Khôn ngoan, Huấn ca, Barúc chẳng vội quên!
Các thư của Giêrêmia cũng được ghi,
Một vài đoạn trong Étte cũng thêm vào dị.
Tổng cộng 7, có khi đến 8 sách,
Tổng cộng 45 hay 46, không ai thắc mắc.
[Bridge: Sự khác biệt]
Palestin chỉ chọn 38 quyển thôi,
Alexandria thêm nhiều sách mới bồi.
Cả hai đều là Cựu Ước đấy bạn ơi,
Chọn sách khác nhau, nhưng cùng một nơi.
Palestin với tiếng Hipri là chuẩn,
Alexandria thêm Hy Lạp cho trọn.
Thư Qui, là cả một quá trình,
Chọn sách nào đúng, để dẫn dắt niềm tin.
[Chorus]
Thư Qui Palestin, Alexandria,
Hai nơi chọn sách thánh, khác biệt bao la.
38 quyển ở Palestin, thêm 7 hoặc 8 nữa,
Alexandria nâng lên, 46 quyển sách chứa!
[Outro]
Vậy Thư Qui là gì, bạn đã rõ chưa?
Đó là quy định sách thánh, vững như lời xưa.
Palestin, Alexandria, hai dòng chảy,
Cùng góp phần xây nên Thánh Kinh mãi mãi!
Thư quy là gì 2?
[Intro]
Yo, nói về Thư qui, quy luật chọn sách,
Cùng tìm hiểu nguồn gốc, xem điều gì cần nhắc.
Từ Do Thái đến Kitô, đến Tin Lành, Công Giáo,
Câu chuyện về Thư qui, nào, bắt đầu khám phá!
[Verse 1: Định nghĩa Thư qui]
Thư qui là gì, bạn có biết chưa?
Tiếng Hy Lạp “Canon” là quy luật, đúng chưa?
Nghĩa đầu tiên là quy định sách thánh,
Những sách nào là chính thống, được Hội Thánh nhận định.
[Verse 2: Thư qui Do Thái giáo – Palestin]
Palestin là tên của thư qui đầu tiên,
Được thừa nhận bởi dân Do Thái tại Palestin.
Sau Giêrusalem thất thủ vào năm 70,
Pharisêu còn lại, họp nhau tại Jamnia, bạn ơi.
Lý do mất nước, theo họ nghĩ ra,
Là thiếu đoàn kết, cả trong việc chọn sách thánh nữa mà.
Họ chọn những sách đáng tin, viết bằng Hipri,
Tổng cộng 38 quyển, Ngũ Thư cũng có trong kia!
Sách Ngôn sứ, Lịch sử và Thi ca,
Cùng Minh triết, họ đặt vào danh sách, cho ra đời Thư qui ta.
[Verse 3: Thư qui Do Thái giáo – Alexandria]
Alexandria là thư qui thứ hai,
Những người Do Thái sống xa, họp nhau định đoạt nay.
Tại Ai Cập, họ sống trong văn hóa Hy Lạp,
Họ thêm vài sách nữa, để bộ sách không bị lạc.
Giuditha, Tôbia, hai quyển Macabê,
Khôn ngoan, Huấn ca, Barúc cũng chẳng hề chê.
Thêm các thư Giêrêmia và vài đoạn khác,
Étte trong đó cũng thêm chút bằng tiếng Hy Lạp.
Bảy hay tám quyển thêm vào đây,
Tổng cộng thành 45, hoặc 46 đấy.
[Verse 4: Thư qui Kitô giáo]
Giờ đến Thư qui Kitô giáo, nghe đây,
Công Giáo và Tin Lành, khác biệt từng ngày.
Tin Lành chọn 65 quyển, rõ ràng,
Cựu Ước 38, theo thư qui Palestin, bạn đàng hoàng.
Tân Ước họ nhận, 27 quyển không sai,
Tổng cộng thành 65, không khác gì mấy.
Công Giáo thêm chút, Thư qui khác biệt,
73 quyển tất cả, gồm cả Alexandrian biết.
Cựu Ước 46, từ sách thánh ấy,
Cộng Tân Ước 27, tổng số rõ ràng, không chệch.
[Verse 5: Khác biệt giữa Kitô giáo và Tin Lành]
Khác biệt đầu tiên, số lượng sách rõ,
Tin Lành là 65, Công Giáo hơn chút, bạn lo!
Thêm nữa, là cách giải thích Thánh Kinh này,
Hai bên khác nhau, cách nhìn thật rành hay.
Công Giáo tin Hội Thánh giữ quyền phán quyết,
Hiến chế Dei Verbum, Hội Thánh dẫn lối thật khéo léo.
“Mọi điều liên hệ đến Kinh phải tùy thuộc quyền Hội Thánh,”
Chúa giao nhiệm vụ, giữ Lời Ngài không mất mảnh.
Tin Lành lại khác, họ để Lời Chúa hướng,
Giải thích Thánh Kinh trên cả Hội Thánh vững.
“Hội Thánh dưới quyền Thánh Kinh,” họ tin chắc,
Lời Chúa là tối cao, không ai có thể mặc.
[Chorus]
Palestin và Alexandria, hai truyền thống khác nhau,
Thư qui Do Thái giáo, mỗi nơi một ngõ sau.
Kitô giáo, Tin Lành và Công Giáo,
Số lượng sách thánh khác biệt như sao!
[Chorus]
Palestin và Alexandria, hai truyền thống khác nhau,
Thư qui Do Thái giáo, mỗi nơi một ngõ sau.
Kitô giáo, Tin Lành và Công Giáo,
Số lượng sách thánh khác biệt như sao!
[Outro]
Thư qui là gì? Đó là câu chuyện của Ngài,
Từ Do Thái giáo đến Kitô giáo nối dài.
Palestin, Alexandria, Công Giáo và Tin Lành,
Mỗi truyền thống khác biệt, nhưng cùng theo Lời Chúa vĩnh hằng!
Bản dịch Thánh Kinh
BẢN DỊCH THÁNH KINH
[Intro]
Yo, chúng ta đang nói về Thánh Kinh, những bản dịch quan trọng,
Từ Hipri đến Hy Lạp, rồi sang Latin bừng sáng.
BẢN 70, Vulgata, TÊ Ô BÊ đều ghi dấu,
Cùng tìm hiểu ngay, điều gì khiến chúng nổi bật lâu!
________________________________________
[Verse 1: BẢN 70 – Bản dịch Cựu Ước sang Hy Lạp]
BẢN 70, nói về bản dịch đầu tiên,
Từ Hipri sang Hy Lạp, khoảng thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên.
Theo truyền thuyết, 70 nhà chuyên môn hợp sức,
Dịch xong trong 70 ngày, không ai bị khựng.
Điều kỳ diệu là cả 70 bản giống nhau,
Như thể Chúa hướng dẫn, không chút khúc mắc nào.
Đó là lý do, người ta gọi là BẢN 70,
Bản dịch Cựu Ước, cả thế giới tôn kính, tôn vinh ngay lập tức.
________________________________________
[Chorus]
BẢN 70, Vulgata, Tê Ô Bê,
Các bản dịch Thánh Kinh, mỗi bản đều có giá trị.
Từ Hipri sang Hy Lạp, đến Latin rồi Pháp,
Câu chuyện dịch thuật không ngừng lan tỏa!
________________________________________
[Verse 2: Vulgata – Bản dịch sang Latin]
Vulgata, bản dịch phổ thông thời Giáo Hội,
Do thánh Giêrônimô, người dịch tận tâm không lơi.
Ông dịch từ Hipri (Cựu Ước), Hy Lạp (Tân Ước) sang Latin,
Thánh Kinh phổ biến trong Giáo Hội, đi vào đời, đi khắp mọi tình.
Vulgata được yêu mến, được kính trọng nhiều,
Bởi nó là nền tảng, giúp Giáo Hội thêm kiên cường và yêu.
Tên gọi Vulgata vì nó rất phổ thông,
Giúp dân Chúa dễ hiểu, dễ thuộc Lời Ngài trong lòng.
________________________________________
[Chorus]
BẢN 70, Vulgata, Tê Ô Bê,
Các bản dịch Thánh Kinh, mỗi bản đều có giá trị.
Từ Hipri sang Hy Lạp, đến Latin rồi Pháp,
Câu chuyện dịch thuật không ngừng lan tỏa!
________________________________________
[Verse 3: TÊ Ô BÊ – Bản dịch đại kết]
Tiếp theo TÊ Ô BÊ, Traduction Oecuménique de la Bible,
Bản dịch đại kết, kết nối Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống mạnh mẽ liền.
Dành cho thế giới nói tiếng Pháp rõ ràng,
Công trình hợp tác, giữa các phía khác nhau đã sẵn sàng.
Làm sao dung hòa sự khác biệt về sách?
Sách được công nhận in đầu, còn lại in sau không khác.
Về phần chú thích, chỉ in điều đồng thuận,
Giữa Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống cùng nhất trí, không phân tán.
________________________________________
[Chorus]
BẢN 70, Vulgata, TÊ Ô BÊ,
Các bản dịch Thánh Kinh, mỗi bản đều có giá trị.
Từ Hipri sang Hy Lạp, đến Latin rồi Pháp,
Câu chuyện dịch thuật không ngừng lan tỏa!
________________________________________
[Outro]
Ba bản dịch quan trọng, mỗi bản đều độc đáo,
BẢN 70, Vulgata, TÊ Ô BÊ, vượt qua những rào cản khó.
Từ ngôn ngữ đến ngôn ngữ, từ thời đại sang thời đại,
Thánh Kinh được bảo tồn, Lời Chúa luôn tồn tại!
Ngũ Thư là gì?
[Verse 1]
Ngũ Thư là gì? Để tôi giải thích nhanh,
Năm cuốn sách đầu, Cựu Ước, luật pháp thiêng liêng,
Do Thái gọi là “Luật,” nền tảng đời sống,
Được viết từ thời cổ, bản Hy Lạp là nguồn gốc.
Từ Sáng Thế đến Đệ Nhị Luật, ta tìm hiểu,
Kế hoạch của Chúa, muôn đời không thể thiếu.
Từ tạo dựng loài người, vũ trụ trọn vẹn,
Đến khi Israel nhận luật, tại núi Sinai thiêng.
[Hook:]
Ngũ Thư nói về khởi đầu sáng tạo,
Thiên Chúa cứu dân Ngài, thoát khỏi khổ đau.
Giao ước Sinai, lời luật in sâu,
Đưa họ về Đất Hứa, niềm tin không lay chuyển đâu.
[Verse 2:]
Sáng Thế mở đầu, Abraham được mời,
Một dân tộc, một vùng đất, Chúa đã hứa từ ngàn đời.
Xuất hành, Lêvi, Dân số tiếp nối,
Tiến về Đất Hứa, tự do tìm kiếm cho đời.
Phép lạ xảy ra, biển đỏ mở đường,
Israel vượt qua, qua nỗi đau và sương.
Nhưng chỉ có một điều kiện cần thiết,
Thực thi Lời Chúa, nơi miền đất vĩnh hằng biết.
[Hook:]
Ngũ Thư nói về khởi đầu sáng tạo,
Thiên Chúa cứu dân Ngài, thoát khỏi khổ đau.
Giao ước Sinai, lời luật in sâu,
Đưa họ về Đất Hứa, niềm tin không lay chuyển đâu.
[Verse 3:]
Nguồn gốc Ngũ Thư, từ bốn truyền thống,
J, E, D, P – từng bước xây dựng công.
Truyền thống J từ phía Nam mà ra,
E từ phía Bắc, sau cuộc phân ly xa.
Sau khi Bắc thất thủ, hai nguồn hòa chung,
J và E kết hợp, từ đây mà thành công.
Rồi đến thời cải cách vua Giôsigiahu,
D được gộp thêm, Luật Thánh thêm lời ru.
Cuối cùng là truyền thống P, sau lưu đày trở về,
Luật lệ, trình thuật, hoàn thành theo ý thế.
Tất cả gộp lại, thành một tác phẩm thiêng,
Ngũ Thư đã hoàn chỉnh, Ba Tư trao lệnh liền.
[Bridge:]
Kitô hữu đọc Ngũ Thư để hiểu Tân Ước,
Hiểu Chúa Giêsu, mầu nhiệm yêu thương trước.
Giáo dục Thiên Chúa dành cho nhân loại,
Học cách sống công bằng, yêu thương không phân loại.
Ngũ Thư giúp hiểu sâu mối tương quan,
Giữa Chúa, con người và vũ trụ thời gian.
Mối dây tình yêu, mầu nhiệm chứa chan,
Đường lối Chúa dành, ánh sáng muôn ngàn.
[Hook:]
Ngũ Thư nói về khởi đầu sáng tạo,
Thiên Chúa cứu dân Ngài, thoát khỏi khổ đau.
Giao ước Sinai, lời luật in sâu,
Đưa họ về Đất Hứa, niềm tin không lay chuyển đâu.
NGŨ THƯ LÀ GÌ
[Verse 1]
Yo, Ngũ Thư là gì, bạn có biết không?
Năm cuốn sách đầu trong Cựu Ước vang vọng!
Người Do Thái coi đó là Luật,
Từ tổ phụ truyền dạy, muôn đời không khuất.
Bản dịch Hy Lạp, thế kỷ thứ hai,
Đặt tên “Ngũ Kinh”, giờ đây ta hiểu ai.
Năm cuộn giấy da, đơn giản mà sâu,
Phần đầu giáo luật, truyền thống từ lâu.
[Chorus]
Ngũ Thư, nền tảng giáo lý,
Của dân Do Thái, của cả niềm tin kỳ diệu kỳ.
Nó là cơ sở cho sách thánh mọi nơi,
Toàn bộ Thánh Kinh, nguồn gốc sáng ngời!
[Verse 2]
Sách này đâu chỉ là năm cuốn rời,
Mà là một công trình, ý nghĩa tuyệt vời.
Mỗi trang sách chứa đầy luật và ân,
Ngũ Thư vĩnh cửu, giáo lý không ngần.
Nền tảng vững chắc cho đạo Chúa Trời,
Thánh Kinh nhờ đó mà mãi sáng ngời.
Ngũ Thư dẫn lối, cho muôn thế hệ,
Đức tin mạnh mẽ, qua ngàn năm không nệ!
[Chorus]
Ngũ Thư, nền tảng giáo lý,
Của dân Do Thái, của cả niềm tin kỳ diệu kỳ.
Nó là cơ sở cho sách thánh mọi nơi,
Toàn bộ Thánh Kinh, nguồn gốc sáng ngời!
Sách sáng thế
[Chorus]
Sáng Thế, Genesis, “lúc khởi đầu”,
Nguồn gốc vũ trụ, loài người, nghe đây bao điều sâu.
Thiên Chúa tạo dựng, Ngài là Đấng Tạo Hóa,
Phẩm giá loài người, cao quý trong ý định Chúa Cha!
[Verse 3: Lịch sử các tổ phụ]
Phần hai là về các tổ phụ của dân Chúa,
Abraham, Isaac, Giacóp, Giuse nữa, không bỏ qua.
Những người được chọn, để dẫn dắt dân riêng,
Câu chuyện đức tin, công chính, từng bước hiện lên thiêng liêng.
Abraham nhận lời hứa từ Thiên Chúa,
Isaac và Giacóp, tiếp nối con đường Ngài chỉ ra.
Giuse là người hoàn thành giấc mơ,
Dòng dõi Israel qua tay Chúa, giờ đây thành bền bỉ, bao la.
[Chorus]
Sáng Thế, Genesis, “lúc khởi đầu”,
Nguồn gốc vũ trụ, loài người, nghe đây bao điều sâu.
Thiên Chúa tạo dựng, Ngài là Đấng Tạo Hóa,
Phẩm giá loài người, cao quý trong ý định Chúa Cha!
[Verse 4: Ý nghĩa thần học]
Sáng Thế không chỉ kể chuyện mà còn suy tư,
Về vũ trụ, con người, định mệnh chứ không dư.
Thiên Chúa là nguồn gốc, mở đầu lịch sử,
Loài người được tạo dựng, với mục đích không phải thừa.
Đau khổ, bất công, và cả sự chết,
Bắt nguồn từ tội lỗi, lời hứa cứu chuộc không mất.
Sách định nghĩa đức tin, và sự công chính,
Thiên Chúa là Đấng mà muôn loài phải tôn vinh.
Chống lại đa thần, chỉ có một Chúa duy nhất,
Phẩm giá con người, Thiên Chúa định rõ ràng thật nhất.
Tôn thờ Ngài, vì Ngài là Tạo Hóa,
Loài người cao quý, trong ý định của Chúa Cha.
[Chorus]
Sáng Thế, Genesis, “lúc khởi đầu”,
Nguồn gốc vũ trụ, loài người, nghe đây bao điều sâu.
Thiên Chúa tạo dựng, Ngài là Đấng Tạo Hóa,
Phẩm giá loài người, cao quý trong ý định Chúa Cha!
[Outro]
Yo, Sách Sáng Thế mở ra mọi điều,
Từ vũ trụ đến con người, đức tin không hề thiếu.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất, muôn loài phải tôn thờ,
Hãy tin vào Lời Ngài, sống đời công chính tựa như mơ.
Sách Xuất hành
[Intro:]
Yo, đây là câu chuyện xưa từ Cựu Ước,
Cuộc hành trình vĩ đại mà Chúa đã đưa trước.
Xuất Hành – không chỉ là chuyện quá khứ đâu,
Mà còn là lời mời gọi mỗi ngày ta bước mau!
Từ Ai Cập tối tăm đến tự do thênh thang,
Cùng Chúa trên đường, vững niềm tin chẳng hoang mang!
[Verse 1:]
Tên sách Xuất Hành là từ Hy Lạp mà ra,
Nghĩa là “ra đi” khỏi đất Ai Cập xa.
Con cái Israel, thoát khỏi cảnh nô lệ,
Chúa ra tay cứu, dẫn họ về nơi quê.
Cuộc hành trình gian nan nhưng đầy hy vọng,
Từ nô lệ tới tự do, ánh sáng trời rộng.
Người dẫn dân Ngài, qua biển cả, sa mạc,
Biến cố lớn lao, trong lòng lịch sử in khắc.
[Hook:]
Xuất Hành – biến cố vĩ đại cho dân,
Thiên Chúa giải thoát, lời hứa muôn ngàn lần.
Giao ước Sinai, luật pháp được ban,
Dân riêng của Ngài, mãi mãi không phai tàn.
[Verse 2:]
Nội dung chính, hai phần lớn phải kể,
Giải thoát khỏi Ai Cập, cuộc đời họ bừng tỏ lẽ.
Giao ước tại Sinai, Thiên Chúa ban lời,
Dân Ngài lập nên, một dân tộc không rời.
Còn hành trình sa mạc, khó khăn, hiểm nguy,
Bao thử thách, gian nan, nhưng lòng chẳng lìa đi.
Vì Chúa che chở, Ngài ban phép lạ thiêng,
Tai ương trút xuống, nhưng Ngài giữ dân riêng.
[Hook:]
Xuất Hành – biến cố vĩ đại cho dân,
Thiên Chúa giải thoát, lời hứa muôn ngàn lần.
Giao ước Sinai, luật pháp được ban,
Dân riêng của Ngài, mãi mãi không phai tàn.
[Verse 3:]
Không chỉ là giải thoát, Ngài còn tạo dân,
Định chế, lề luật, phụng tự đều dần hình thành.
Xuất Hành ghi dấu, dân Israel được sinh ra,
Luật pháp soi đường, phụng tự đưa họ về nhà.
Đây là Tin Mừng của Cựu Ước chúng ta,
Chúa đến thăm dân khổ, nơi Ai Cập xa.
Ngài giữ lời hứa, dẫn họ tới tự do,
Lập họ thành dân riêng, với tình yêu cao to.
[Bridge:]
Xuất Hành không chỉ là quá khứ xa xăm,
Mà luôn hiện diện trong phụng tự hôm nay.
Giáo hội và tín hữu mỗi ngày tiến bước,
Xuất hành trong đời, theo chân Chúa đến trước.
[Hook:]
Xuất Hành – biến cố vĩ đại cho dân,
Thiên Chúa giải thoát, lời hứa muôn ngàn lần.
Giao ước Sinai, luật pháp được ban,
Dân riêng của Ngài, mãi mãi không phai tàn.
Sách Lêvi
[Intro:]
Yo, đây là sách Lêvi, lời Chúa truyền dạy,
Luật phụng tự, chức tư tế, dân Ngài luôn sống ngay.
Người gọi – “Và Người gọi” từ Thiên Chúa,
Hãy hiệp thông với Ngài, vì chính điều đó mà ta sống mãi.
[Verse 1:]
Tên sách Lêvi, gốc Hipri “Và Người gọi”,
Chủ đề chính là tư tế, chi tộc Lêvi đứng đầu đón đợi.
Họ mang sứ vụ, kết nối trời và đất,
Dân Chúa thờ phụng, từng lời lệnh truyền luôn là thật.
Trong tiếng Việt, gọi là Lêvi do bản Hy Lạp dịch,
Chức tư tế độc quyền, sứ mạng thiêng liêng đến từ lời thánh tích.
Là sách của các tư tế, hướng dẫn nghi lễ phụng thờ,
Đưa dân vào hiệp thông với Chúa, không còn bơ vơ.
[Hook:]
Sách Lêvi – luật phụng tự đã ban ra,
85% là lệnh Chúa, mọi điều Ngài truyền cho chúng ta.
Tư tế làm trung gian giữa đất và trời,
Chức thánh tiên báo Đức Kitô, đến ban sự sống đời đời.
[Verse 2:]
Nội dung chính, từ nghi thức lễ tế (Lv 1-7),
Lễ tấn phong tư tế, nghiêm túc không thể sai lệch.
Luật sạch, luật dơ, giữ lòng dân luôn trong sáng,
Từ thân xác đến tâm hồn, thánh thiện luôn rạng ngời thắm.
Sách dạy về sự thánh thiện (Lv 17-26),
Mọi điều giữ dân cách xa điều xấu, điều tệ.
Còn giá biểu cho lời khấn, mỗi khi dân hứa nguyện,
Giữ vẹn lời hứa, trong hành động và sự thiện.
[Hook:]
Sách Lêvi – luật phụng tự đã ban ra,
85% là lệnh Chúa, mọi điều Ngài truyền cho chúng ta.
Tư tế làm trung gian giữa đất và trời,
Chức thánh tiên báo Đức Kitô, đến ban sự sống đời đời.
[Verse 3:]
Ý nghĩa thần học rõ ràng, từ mọi điều luật phụng thờ,
Hiệp thông với Thiên Chúa, là sống còn không phai mờ.
Tư tế là cầu nối, giữa Thiên Chúa với dân,
Vai trò không thể thiếu, giữa đất trời muôn phần.
Tiên báo về chức tư tế của Đức Kitô,
Ngài là tư tế thánh, vượt xa mọi điều con người mong chờ.
Đưa dân vào sự sống, qua lễ tế cao cả,
Lêvi tiên báo, Kitô hoàn tất, lời nguyện muôn đời tỏa ra.
[Bridge:]
Dân Chúa hiệp thông, luật lệ soi đường,
Lêvi – sách thiêng, luật sống, tình yêu Chúa ban thường.
Tư tế Kitô, nối kết thiên đàng với cõi nhân gian,
Lời Chúa vẫn vang, qua mọi thời, luôn rạng ngời khôn ngoan.
[Hook:]
Sách Lêvi – luật phụng tự đã ban ra,
85% là lệnh Chúa, mọi điều Ngài truyền cho chúng ta.
Tư tế làm trung gian giữa đất và trời,
Chức thánh tiên báo Đức Kitô, đến ban sự sống đời đời.
Sách Đệ nhị luật
(Intro)
Yo, ta về với sách Đệ Nhị Luật,
Không phải luật mới đâu, đó chỉ là luật mà Môsê đã thuật.
“Những lời” viết ra, từ con tim, con chữ,
Gửi dân Israel, nhắc nhớ những gì đã hứa.
(Verse 1)
Sách mang cái tên “Luật thứ hai,”
Nhưng không có luật mới, chỉ là cải biên dài.
Bản Bảy Mươi Hy Lạp dịch sát nghĩa đúng,
Đệ Nhị Luật, đấy, là luật Môsê cùng lời đã từng.
Trong Hipri, gọi là “Những lời,”
Những lời của Môsê, dẫn dắt qua tháng ngày trời.
Đức Chúa duy nhất, không có ai ngoài,
Chọn dân Israel, tình yêu Ngài không phai.
(Chorus)
Yo, Đệ Nhị Luật – diễn từ Môsê,
Thiên Chúa chọn dân Ngài, lời yêu thương mãi không hề xa.
Ban giao ước và luật Ngài yêu,
Chỉ mong dân trung thành, đời luôn thuận theo.
(Verse 2)
Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất của dân Ngài,
Tình yêu chung thủy, dẫn dắt qua đường dài.
Ngài chọn dân trong yêu thương và ân sủng,
Để họ đáp lại bằng tình yêu và lòng trung.
Thiên Chúa ban cho dân một mảnh đất quê hương,
Lãnh thổ Ngài đã hứa, một nơi yên bình muôn phương.
Giao ước Ngài trao, luật yêu thương theo chân,
Dân phải giữ trung thành, đời sống thánh thiện, chẳng ngại ngần.
Phụng vụ là ưu tiên, lời Chúa phải nghe,
Để nhớ rằng Thiên Chúa vẫn luôn gần kề.
Mỗi lời cầu, mỗi nghi thức truyền trao,
Là lời nhắc nhở, Thiên Chúa Ngài luôn bao.
(Chorus)
Yo, Đệ Nhị Luật – diễn từ Môsê,
Thiên Chúa chọn dân Ngài, lời yêu thương mãi không hề xa.
Ban giao ước và luật Ngài yêu,
Chỉ mong dân trung thành, đời luôn thuận theo.
(Bridge)
Ý nghĩa thần học trong đây chứa chan,
Đệ Nhị Luật là kết tinh, chặt chẽ qua từng trang.
Nội tâm gắn bó với Thiên Chúa toàn năng,
Ngoại diện là xã hội trung kiên, đức tin ngút ngàn.
Lịch sử đầy biến động, dân bao lần sai,
Nhưng Đức Chúa vẫn luôn tha thứ mãi.
Nếu dân không trung thành, Ngài sẽ xa cách,
Họ mất đi phúc lành, mất nơi yên bình của mình, thấy thật cay đắng.
Nhưng mỗi lần trở về, phụng vụ dân ca,
Nghe Lời Thiên Chúa, lòng tin yêu vẫn là.
Những ngày lễ hội, những nghi thức sâu sắc,
Dân cử hành, để nhớ, Thiên Chúa không bao giờ mặc.
(Verse 3)
Trung thành là chìa khóa, giữ trọn giao ước,
Nếu không, dân mất hết, đời sẽ đầy xót thương.
Dân đã biết qua bao lần lỗi lầm,
Thiên Chúa cảnh báo rồi, mà dân vẫn lắm vấn vương.
Thiên Chúa kiên nhẫn, Ngài chờ dân quay lại,
Nhưng mỗi lần thất hứa, phúc lành lại phai.
Dân giữ niềm tin, mới mong đất nước trường tồn,
Một xã hội bền vững, đức tin trong từng dòng.
(Chorus)
Yo, Đệ Nhị Luật – diễn từ Môsê,
Thiên Chúa chọn dân Ngài, lời yêu thương mãi không hề xa.
Ban giao ước và luật Ngài yêu,
Chỉ mong dân trung thành, đời luôn thuận theo.
(Outro)
Yo, Đệ Nhị Luật – từ những lời của Môsê,
Thiên Chúa yêu dân Ngài, và lời Ngài không hề xa.
Đáp lại là trung thành, với luật Ngài yêu,
Với phụng vụ, với đức tin – mãi mãi vẹn nguyên yêu thương.
(Fade out)
Đệ Nhị Luật, không chỉ là luật,
Là tình yêu của Chúa, trong trái tim đã khắc…
Các sách lịch sử
1.Dẫn nhập tổng quát
[Verse 1: ]
Hãy cùng nhau tìm hiểu tổng quát về các sách lịch sử.
Lịch sử Israel viết ra như một tấm gương
Dẫn lối nhân loại trên con đường đi qua bão giông
Bốn nhóm sách lịch sử, nghe mà nhớ kỹ nhé
Giosue, Thủ Lãnh, Rút, Samuel, Vua xếp hàng thẳng tắp như phép.
Sử Biên Niên, Etra với Nokhemia
Tobia, Giuditha, Ette như khúc ca
Macabe lần một, lần hai, sự kiện không bỏ sót
Lời Chúa hiện ra, lịch sử như rọi chiếu đèn pha.
[Hook:]
Dưới ánh sáng Giao Ước, lịch sử nối dài
Thăng trầm là do trung thành hay phản bội phôi phai
Từ Đất Hứa đến lưu đày, ta nhận ra
Tay Chúa dẫn dắt, dù lịch sử có đầy thăng trầm ngang qua.
[Verse 2: ]
Sau đây là mục đích các sách lịch sử.
Lịch sử đọc lại, dưới ánh sáng Thiên Chúa
Dân Chúa đã sống, đã làm, nhưng có khi quên lỡ
Lời Ngài nhắc nhở, thăng trầm rõ ràng
Trung thành được chúc phúc, phản bội thì bị tan.
[Hook:]
Dưới ánh sáng Giao Ước, lịch sử nối dài
Thăng trầm là do trung thành hay phản bội phôi phai
Từ Đất Hứa đến lưu đày, ta nhận ra
Tay Chúa dẫn dắt, dù lịch sử có đầy thăng trầm ngang qua.
[Verse 3: ]
Hãy tìm hiểu về cách viết các sách lịch sử.
Không theo trình tự, nhưng chuyện bên chuyện nối
Đôi khi giáo lý làm khách quan bị rối
Nhưng đừng lo, đó là cách Ngài kể
Về dân Chúa chọn, lịch sử thành lời thề.
Lịch sử thánh, không chỉ đơn thuần là sự kiện
Mà còn là mối ân tình, Thiên Chúa đã vẹn
Ngài đòi hỏi, Ngài yêu thương và chuẩn bị
Cho một Israel mới, cộng đồng tín hữu bền bỉ.
[Bridge:]
Lý tưởng về thần quyền, bị lung lay vì vương quyền
Triều đại Đavít, nhưng rồi Salômon suy đồi liền
Bất trung, dân đã phản bội Thiên Chúa
Án phạt giáng xuống, nhưng ơn cứu độ vẫn không mất nửa.
[Verse 4: ]
Sau đây là ý nghĩa.
Lịch sử Israel, bài học lớn về ơn cứu rỗi
Nhìn theo nhân loại, thất bại như không còn chỗ ngồi
Nhưng trong sự thất bại ấy, ta nhận ra chân lý
Tình thương Thiên Chúa vĩ đại, mãi không gì vơi đi.
Israel là hình ảnh, Giáo Hội Kitô vinh quang
Những gì xảy ra, là lời tiên tri vững vàng
Thiên Chúa đã, đang, và sẽ thực hiện
Trong Giáo Hội Người, tình yêu luôn hiện diện.
[Outro:]
Dưới ánh sáng Giao Ước, lịch sử nối dài
Thăng trầm là do trung thành hay phản bội phôi phai
Từ Đất Hứa đến lưu đày, ta nhận ra
Tay Chúa dẫn dắt, mãi mãi không lìa xa!
2. Sách Giôsuê
[Intro:]
Yo, sách Giô suê, hành trình đầy gian nan,
Dân Israel tiến vào Đất Hứa, lời hứa đã ban.
Giô suê lãnh đạo, tiếp nối Mô sê,
Cuộc chinh phục Đất Hứa bắt đầu từ đây.
[Verse 1 -]
Giô suê được chọn, tiếp nhận trọng trách,
Sau Mô sê xức dầu, ông dẫn dắt không mắc.
Chương 1 đến 12, vào đất và chinh phục,
Thiên Chúa ra tay, cuộc chiến không thể dừng.
Qua 20 năm dài, Đất Hứa trở thành hiện thực,
Dưới sự lãnh đạo của ông, mọi việc đều chính xác.
Người chia đất, phân quyền cho các chi tộc,
Từng phần đất được trao, không để ai phải khóc.
[Hook:]
Giôsuê tiến bước, Chúa luôn đồng hành,
Đất Hứa trong tay, sự trung tín tỏa sáng.
Công trình của Thiên Chúa, dân Ngài chiến thắng,
Hãy trung thành, phước hạnh sẽ mãi vang.
[Verse 2 – Nội dung:]
Chương 13 đến 22, ông hướng dẫn phân chia,
Mọi chi tộc có phần, đất đai phân bố rõ kia.
Thiên Chúa đã hứa, và giờ lời hứa thành hiện thực,
Cuộc chiến và chiến công, chính Ngài đã tạo dựng.
Lời chia tay cuối cùng, chương hai mươi ba và hai mươi bốn,
Giô suê nhắc dân nhớ, giữ giao ước đến đời sau.
Trung thành với Chúa, phước hạnh sẽ đổ đầy,
Bất trung rồi trở lại, ân huệ vẫn ở đây.
[Hook:]
Giô suê tiến bước, Chúa luôn đồng hành,
Đất Hứa trong tay, sự trung tín tỏa sáng.
Công trình của Thiên Chúa, dân Ngài chiến thắng,
Hãy trung thành, phước hạnh sẽ mãi vang.
[Bridge – Ý nghĩa thần học:]
Sau đây là ý nghĩa thần học.
Qua Giô suê, ta thấy hình ảnh của Đức Giê su,
Ngài là thủ lãnh, dẫn dắt ta không ngừng nghỉ.
Những chiến binh thập tự, chinh phục mọi thách thức,
Với niềm tin vào Chúa, mọi phước hạnh đều nhận được.
[Verse 3 – Ý nghĩa thần học:]
Cuộc chiến không phải chỉ với binh đao,
Mà là sự trung tín, giữ niềm tin cho thật cao.
Thiên Chúa luôn trung thành, Đất Hứa là món quà,
Nhưng chỉ khi tin tưởng, phước hạnh mới tràn đầy.
Nếu lạc lối, hãy sám hối trở về,
Giô suê đã nói, hãy luôn giữ lời thề.
Công trình Chúa ban, là ân huệ vô biên,
Chiến đấu vì niềm tin, phước hạnh mãi hiển nhiên.
[Hook:]
Giô suê tiến bước, Chúa luôn đồng hành,
Đất Hứa trong tay, sự trung tín tỏa sáng.
Công trình của Thiên Chúa, dân Ngài chiến thắng,
Hãy trung thành, phước hạnh sẽ mãi vang.
[Outro:]
Yo, sách Giô suê đã dạy cho ta thấy,
Trung thành với Chúa, cuộc sống mãi xanh tươi đầy.
Còn bất trung, thì hãy mau trở lại,
Giôsuê đã nói, niềm tin luôn tỏa sáng mãi.